Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn lớp 10

    VĂN HỌC YÊU NƯỚC THỜI TRUNG ĐẠI 

1. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

- Các tác phẩm ra đời trong một thời kì lịch sử có nhiều chiến công hiển hách của dân tộc ta trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước, phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh  qua các trận chiến: Như Nguyệt, Bạch Đằng, Chi Lăng với những tên tuổi chói lọi của các anh hùng Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi,…

- Trong bổi cảnh lịch sử ấy, văn học thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, ý chí quật khởi chống ngoại xâm, lập chiến công lừng lẫy, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi của dân tộc ta.

- Yêu nước là yêu vua bởi vua là tượng trưng cho đất nước, là căm thù giặc sâu sắc, là xây dựng đất nước hoà bình, là và tinh thần quật khởi chống xâm lược, là ý chí chiến đấu kiên cường.

- Những biểu hiện cụ thể:

* Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt:

          + Tự hào về chủ quyền đất nước “Sông …….ở” -> “nước nam, vua Nam”-> khẳng định nền độc lập và chủ quyền của dân tộc VN => đánh đổ quan niệm của bọn pk phương Bắc coi VN như một quận, một châu của chúng, vua VN là do chúng lập ra. Hiện tại VN đã hoàn toàn độc lập, tự chủ, vua VN cũng là Hoàng đế nước Nam như Hoàng đế TQ -> VN hoàn toàn bình đẳng với TQ. Đó là một lời khẳng định đanh thép, có chứng cớ, có cơ sở “Rành……trời”: Trời đã quy định nên kẻ nào nghịch mệnh trời sẽ bị trừng trị.

          + Tự hào về khả năng chiến đấu và chiến thắng của dân tộc VN “Như………hư”. Yêu nước LTK tự hào và dũng cảm tuyên bố về nền độc lập và chủ quyền công khai trước áp lực của giặc Tống, đồng thời thể hiện quyết tâm sắt đá và bản lĩnh để báo trước bản án tử hình đối với kẻ thù xâm lược.

* Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão:

          + Tự hào về sức mạnh toàn quân, tự hào về đóng góp của trai đời Trần và công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, tự hào vì được góp sức bảo vệ non sông, góp sức làm nên chiến thắng hào hùng cho triều đại, cho dân tộc.

          + Yêu nước thể hiện qua tinh thần chiến đấu, niềm tự hào thể hiện qua sự trăn trở, khát vọng của chính bản thân tác giả.

* Bạc Đằng giang phú của Trương Hán Siêu:

- Yêu mến và tự hào về vẻ đẹp của non sông đất nước :

+ Tự hào về  dòng sông lịch sử: Nơi  ghi dấu chiến thắng ba lần oanh liệt chống ngoại xâm: 

à Ngô Quyền thắng quân Nam Hán

                    à Lê Hoàn thắng Tống

                    à Nhà Trần thắng Nguyên.

          + Tự hào về vẻ đẹp nên thơ của dòng sông lịch sử : “Bát ngát sóng kình muôn dặm - Thướt tha đuôi trĩ một màu - Nước trời một, phong cảnh ba thu – Bờ lau san sát bến lách đìu hiu..” và nơi chiến địa buổi “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã

          + Tự hào về sức mạnh của quân dân nhà Trần, ông đã dựng lại bức tranh về cuộc thư hùng trên sông BĐ với những đường nét kì vĩ, màu sắc tươi tắn rực rỡ, hào khí ngất trời: “Đương khi ấy…..giáo gươm sáng chói

          + Tự hào khi đất nước sạch bóng quân thù, mở đầu xây dựng một giai đoạn

hoà bình : “ Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

          + Say mê cảnh đẹp , thích thú du ngoạn khắp nơi để tìm hiểu quê hương đất nước “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết…Học Tử Trường chừ thú phiêu diêu… Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều, đến sông Bạch Đằng

          + Nghẹn ngào  khi nhớ về những anh hùng đã chiến đấu bảo vệ đất nước, nhất là người chủ tướng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

          + Yêu nước là yêu vua, yêu chủ tướng -> ngưỡng mộ và khâm phục hai vua “Anh minh hai vị thánh quân”, biết ơn Trần Hưng Đạo cũng như các vị anh hùng dân tộc đã làm nên chiến thắng:

                                      “Cũng là nhờ trời đất cho nơi hiểm trở

                                      Nhân tài giữ cuộc điện an…

                                      Trận Bạch Đằng mà đại thắng

                                      Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.

          + Căm ghét khinh bỉ quân xâm lược “Mà nay nước sông tuy chảy hoài – Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”

=> Bài phú là bài ca  ca ngợi đầy hào hứng về dòng sông huyền thoại Bạch Đằng Giang, là bản hùng ca, cũng là bản tình ca về tình yêu nước và tự hào dân tộc.

* Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn

- Căm thù giặc sâu sắc:  

+ Lên án bọn giặc xâm lược với thái độ sục sôi, coi giặc như cú diều, dê chó, hổ đói “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem tấm thân dê chó mà bắt bạt tể phụ.                           

          + Lời tâm sự : “Ta thường…..vui lòng

          + Khích lệ tinh thần quân sĩ

*Phò giá về kinh của Trần Quang Khải

- Tự hào về những chiến công lừng lẫy: “Chương Dương cướp giáo giặc

                                                                   Hàm Tử  bắt quân thù

- Mong ước giang san bền vững muôn đời:

                                                                   Thái bình nên gắng sức

                                                                   Non nước ấy ngàn thu.

*Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

- Tự hào về chí khí hào hùng của tướng lĩnh và khí thế ngất trời  của ba quân đời Trần:

                                      Múa giáo non sông trải mấy thu

                                      Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

                                      Công danh vương tử còn vương nợ

                                      Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

- Khát vọng lập công, cống hiến tài năng cho sự nghiệp độc lập dân tộc.

* Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:

- Căm thù giặc, NT miêu tả kẻ thù như một bầy dã thú “Thằng há …chán”

- Thương dân điêu linh vì giặc đày đoạ, vơ vét, khủng bố, tàn sát : “Ngẫm thù lớn …  sống”

- Vì dân mà diệt bạo: “Việc nhân nghĩa……trừ bạo

- Ý thức độc lập tự cường: đau lòng nhức óc, mưu tính việc khôi phục nền độc lập cho nước nhà “Những trằn trọc….đồ hồi”

- Ý chí kiên cường dũng mãnh của nghĩa quân Lam Sơn: “Gươm mài đá…cạn”

- Tấn công giăc như vũ bão lập nên những chiến công hiển hách: “Đánh một ….cơn gió to quét sạch lá khô….vỡ”

2. Nhận xét về giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, sách Văn học 10, tập 1 viết: “Các nhà văn nhà thơ tiêu biểu của văn học giai đoạn này, bất luận là nhà nho hay nhà sư, hầu hết là những người có tham gia cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, và tác phẩm tiêu biểu của họ cũng là những tác phẩm viết về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm… Bằng sự hiểu biết của mình về thơ văn giai đoạn này, hãy chứng minh ý kiến trên.

* Gợi ý:

- Các nhà văn, nhà thơ của giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến XV là những người trực tiếp tham gia chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ chủ quyền dân tộc à đề tài chống ngoại xâm đã trở thành đề tài chủ yếu trong tác phẩm của họ. Cảm hứng thời đại của hào khí Đông A, của một thời Lam Sơn khởi nghĩa là chất men say, nguồn hiện thực giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ của mọi thời đại: Bài thơ “Thần” tương truyền của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ văn” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi,…thơ Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trương Hán Siêu, Đặng Dung…tất cả đã tái hiện “không khí anh hifng của một thời đại anh hùng”, những anh hùng bất khuất chống ngoại xâm bảo vệ đất nước.

          * Bài thơ “Thần” tương truyền của Lý Thường Kiệt- bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên, khẳng định sức mạnh của đất nước Đại Việt:

                   + Với sức mạnh của quân và dân nhà Lý, chiến thắng trên sông Như Nguyệt là nguồn thi hứng mãnh liệt làm tiền đề cho bản tuyên ngôn đầu tiên “Nam quốc ….thủ bại hư”

                   + Có hiểu được nỗi khổ nhục của một ngàn năm Bắc thuộc mới hiểu hết được sự sảng khoái, niềm tự hào của bài thơ “Sông núi nước Nam….đánh tơi bời”

=> hùng khí của bài thơ vút lên tận trời, nó không chỉ làm hoảng kinh nẻ thù mà còn là một niềm động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.

          * Bài “Hịch tướng sĩ”- sức mạnh được nhân lên gấp bội:

                   + Hiện thực lớn lao của ba lần kháng chiến đánh tan Nguyên – Mông đã được tái hiện. Hiện thực đó là bức tranh toàn cảnh tác động lớn lao đến quân dân nhà Trần, nó biến thành lòng căm thù quân cuố nước: “Ta thường…..cũng vui lòng”

                   + Không có sức mạnh của trận “Bạch Đằng “sấm vang chớp giật” ko thể có một âm điệu như thế trong “Hịch tướng sĩ”. Mục đích của bài hịch là khích lệ tinh thần tướng sĩ nhà Trần, cơ sở của sự khích lệ vẫn là sức mạnh long trời lở đất của những chiến thắng trước, đó là cơ sở để Trần Quốc Tuấn gọi sứ giả của cường địch phương Bắc là “cú diều”, “dê chó”: “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem tấm thân dê chó mà bắt bạt tể phụ”

                   + Hiểu được tương quan lực lượng, binh mã giữa ta và kẻ địch, tầm vóc của quân đội nhà Nguyên với thế giới, ta mới thấy hết giá trị của những từ xưng hô đầy khinh miệt, mang tính chiến đấu cao của bài hịch

-  Sức mạnh của lời động viên, khích lệ đã thành hiện thực. Quân đội nhà Trần đánh tan quân Nguyên lần thứ ba. Tràn ngập trong văn thơ giai đoạn này là cảm hứng tự hào về sức mạnh của một thời đại anh hùng chống ngoại xâm.

          * Bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu đã mở đầu cho bản đại hùng ca của thời đại.

                   + Bài phú là một bản tổng kết vĩ đại về sức mạnh chiến thắng của quân dân ta với kẻ thù xâm lược “Đây là chiến địa buổi ….Giáo gươm sáng chói”

                   + Lời phú sảng khoái mà tha thiết, rực lửa chiến thắng mà vẫn chứa chan nhân nghĩa. Đó cũng là sức mạnh chiến thắng, lí tưởng sáng ngời của một đất nước luôn luôn bất khuất chống ngoại xâm.

          * Thơ của Phạm Ngũ Lão và Trần Quang Khải – những danh tướng nhà Trần vừa rời tay gươm, đã không ngăn cảm xúc, cầm bút hòa chung vào bản hợp xướng vĩ đại của đất nước:

                   + Trong “Tụng giá hoàn kinh sư” tác giả viết “Đoạt sóc Chương Dương độ…..Vạn cổ thử giang san”

                   + Trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão: từ những chiến thắng, từ hình ảnh những người anh hùng thời đại, ông đã khắc tạc trong thơ tượng đài kì vĩ của người nam nhi mang lí tưởng chống giặc ngoại xâm: “Hoành sóc…Vũ Hầu”

=> Đó là hình ảnh chung của người VN trên con đường gian khổ để giữ gìn giang sơn gấm vóc. Hình ảnh này tiêu biểu cho vẻ đẹp thời đại, nó có giá trị khởi đầu để sau đó xuất hiện những hình ảnh kế tục trong thơ ca

          * Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi – hình ảnh chiến đấu và chiến thắng:

                   + Mười năm trường kì gian khổ, nếm mật nằm gai, mười năm “ngẫm thù lớn há đội trời chung” đã hun đúc nên sức mạnh long trời lở đất của nghĩa quân Lam Sơn trước “quân cuồng Minh”. Nếu bài thơ “Thần” của Lí Thường Kiệt là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất thì Bình Ngô đại cáo  là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc – bản tổng kết mười năm anh dũng, gian khổ chống giặc, mở ra một kỉ nguyên mới cho tương lai đất nước. Hiện thực đã thổi vào thơ văn những luồng gió làm bừng sáng ngọn lửa tiêu diệt kẻ thù: “Đánh một trận….chim muông”  để rồi “Tướng giặc bị cầm tù…..hiếu sinh”

                   + Trong “BNĐC” niềm tự hào và tinh thần dân tộc đã lên đến đỉnh cao. Cùng với những áng thơ văn chiến đấu đời Lí, Trần, tác phẩm là một tập đại thành cho phép chúng ta nghĩ rằng âm điệu chiến đấu và chiến thắng là âm điệu chủ yếu của giai đoạn văn học này.

=> Từ thế kỉ X đến XV là thời đại mà mọi tác phẩm, trước hiện thực lớn lao của đất nước, đã hòa chung một điệu, tạo nên một khúc anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng của một thời đại anh hùng.

....

Link tải file word bản full: Tải xuống

Previous Post Next Post