Skkn Biện pháp giúp học sinh lớp 1 hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục

 


1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Biện pháp giúp học sinh lớp 1 hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục”.

2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.

3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Chủ nhiệm)

4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 10/05/2020

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1.Tính mới của sáng kiến:

- Với đề tài “Biện pháp giúp học sinh lớp 1 hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục”, bản thân tôi muốn đưa ra một số biện pháp giáo dục tích cực để giúp cho những học sinh chậm tiến, chưa ngoan từng bước thay đổi, nhận thức được sai lầm của mình và sẽ có thái độ học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết tôn trọng bản thân mình và xác định được sự quan trọng của việc học. Giúp cho các em thấy được cha mẹ có công lao rất lớn, đã vất vả nuôi con ăn học. Giúp các em nhận ra sự vất vả và công lao to lớn của thầy cô trong công việc truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Từ đó các em sẽ hiểu và biết làm gì để không phụ lòng mong mỏi của bố mẹ, thầy cô giáo.

- Bên cạnh đó phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác chủ nhiệm cũng như nghề nghiệp của mình. Đối với học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục, người giáo viên chủ nhiệm phải biết nhìn bằng con mắt tình thương và sự thông cảm, thật sự xem học sinh như người thân của mình. Giáo viên nên có cái hiền từ, bao dung của người mẹ người cha, cái gần gũi cảm thông của người anh, người chị và cái thân thiết của một người bạn. Nghề dạy học là một nghề thiêng liêng cao cả, không phải ai cũng làm được như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói“ Nghề dạy học là nghề cao cả nhất trong những nghề cao cả”. Giáo viên xác định được “tất cả vì đàn em thân yêu” để xây dựng nhà trường thật vững mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục, tăng học sinh hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hạ thấp học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục, giảm tỷ lệ học sinh nghỉ, bỏ học và góp phần xây dựng môi trường học tập“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

5.2. Nội dung sáng kiến:

- Là một giáo viên chủ nhiệm trực tiếp đứng lớp, tính đến nay đã hơn 19 năm trong nghề. Trong suốt quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chủ yếu là con em lao động, cha mẹ làm vườn, rẫy nên ít có thời gian quan tâm đến việc học của con em mình. Hầu hết phụ huynh có trình độ văn hoá thấp nên mức hiểu biết rất hạn chế, mọi vấn đề liên quan đến việc học tập của con em mình chỉ trông chờ và giao phó cho giáo viên chủ nhiệm. Chính vì vậy vai trò của người giáo viên đứng lớp quả thật rất vất vả.

- Qua kế hoạch từng tháng giúp tôi theo dõi, phát hiện được những học sinh xuất sắc, những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục để từ đó kịp thời có biện pháp giáo dục các em và kết quả là có 3 học sinh đặc biệt cần chú ý hơn đối với những em bình thường. Đó là những em chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục. Những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục được chia thành các loại sau:

* Học sinh thứ hai nhất (Nguyễn Tấn Phúc): Chưa hoàn thành các môn học do học hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ lo làm ăn không quan tâm, nhắc nhở con em mình, học trước quên sau, chậm tiến, chưa tự giác trong học tập.   

* Học sinh thứ hai (Trần Quốc Tuấn): Chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục do ham chơi không học bài.

- Để khắc phục tình trạng này thì trước hết mỗi thầy giáo (cô giáo) cần nhận thức rằng người giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục toàn diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng rất nhiều vai trò: Vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em theo quỹ đạo của mình. Giáo viên có chỉ đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt động của lớp đã đi vào nề nếp thì việc học tập của các em chắc chắn sẽ tốt hơn. Làm thế nào để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục đạt được hiệu quả?

- Từ kết quả thực tế có 2 học sinh chưa hoàn thành các môn học, bản thân tôi cũng đã từng sử dụng các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục như: nhắc nhở, vỗ bàn, đập bàn ghế, bắt chép phạt bài nhiều lần, phạt trực nhật lớp… nhưng tôi thấy không đem lại hiệu quả, các biện pháp cứng rắn dường như phản tác dụng nên khi các em không học bài, làm bài, nghỉ học, không làm được bài tập khi ở lớp… tôi đều bình tĩnh để tìm ra hướng giải quyết, tôi đã nhẹ nhàng hơn với học sinh, tăng cường phương pháp kỉ luật tích cực. Thay vì mắng mỏ và dùng hình phạt, khi học sinh vi phạm tôi động viên, khuyến khích, dùng tình cảm bạn bè, lấy nghĩa cô trò, lắng nghe học sinh nhiều hơn. Không khí lớp học từ nặng nề đã trở nên thoải mái, học sinh cũng nghe lời và tự giác nhận lỗi. Có kết quả khả quan nên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp học sinh hoàn thành tốt các môn học và hoạt động giáo dục ở lớp như sau:

5.2.1.Tìm hiểu thông tin cá nhân học sinh.

- Ngay từ ngày đầu đón học sinh nhập học, để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp thì người giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong, khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh, những thông tin liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Nên ngay từ đầu năm học, khi được nhận lớp tôi đã tiến hành điều tra hoàn cảnh thực tế để có cơ sở phân nhóm học sinh cho phù hợp với từng biện pháp giáo dục.

- Tôi tìm hiểu học sinh qua: Hoàn cảnh gia đình để giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh.

- Tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học sinh hằng ngày trong các hoạt động giáo dục, lao động và sinh hoạt để biết hành vi thái độ học sinh. Từ đó tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính của từng em.

- Ngoài ra tôi còn sử dụng phiếu thông tin học sinh để điều tra nắm bắt hoàn cảnh học sinh, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức ở năm trước, phân biệt độ tuổi để nắm được đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các em.

 

                                  PHIẾU THÔNG TIN HỌC SINH

Họ tên học sinh:.........................................................................................

Sinh ngày………………..tháng ………………….năm………………………...

Nơi sinh:………………………………………… ………….Dân tộc:…………

Địa chỉ thường trú:.....................................................................................

Thuộc diện ưu tiên, chính sách: ( Thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, dân tộc, nghèo, mồ côi )...................... …………………………………………………………

Họ tên cha:…………tuổi……,nghề nghiệp……….,số điện thoại..... …………

Họ tên mẹ:……………… tuổi……nghề nghiệp………,số điện thoại …………

Gia đình có bao nhiêu anh chị em, nghề nghiệp của anh chị em: …………………………………………………………………………………..

Đường từ nhà đến trường dài khoảng:…………….mét.

Sống với ai?..........................................................................................................

Nguồn thu nhập chính của bố mẹ hay người nuôi dưỡng:  …………đồng/tháng.

Ước mơ sau này của em là gì?..............................................................................

Ngoài giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình?........................................

Trong học tập và cuộc sống em gặp phải khó khăn gì?........................................

Em chơi thân với bạn nào? Bạn đó học lớp mấy?................................................

               Kết quả học tập và rèn luyện của em năm học 2019 – 2020

MÔN

Đánh giá thường xuyên đối với các môn học, hoạt

động giáo dục.

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

TiếngViệt

 

 

Toán

 

 

Tự nhiên và Xã hội

 

 

Tiếng Anh

 

 

Hoạt động giáo dục (AN, MT, GDTC)

 

 

 

         - Phiếu thông tin này được phát cho học sinh trong tuần đầu của năm học, học sinh sẽ điền thông tin, học sinh điền xong tôi đóng thành cuốn để nắm rõ thông tin học sinh trong năm học. Dựa vào phiếu thông tin này giúp tôi dễ dàng phân loại học sinh theo từng địa bàn, từng nhóm đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch và biện pháp giáo dục cho phù hợp.

         5.2.2. Lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm lớp và thực hiện kế hoạch:

         - Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp dạy chữ và dạy người, hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học các lớp trên, là người quyết định chất lượng các hoạt động giáo dục của lớp khi và chỉ khi giáo viên chủ nhiệm có sự định hướng, tư vấn, chia sẻ kịp thời trong quá trình tự rèn luyện của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm đối với lớp học cần phải hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc lập kế hoạch chủ nhiệm lớp. Kế hoạch chủ nhiệm nhằm xác định một cách chính xác cái đích mà lớp muốn đi đến và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó. Để xây dựng được kế hoạch chủ nhiệm tốt, tôi xác định rõ ràng định hướng tương lai cần đạt của lớp học.

         - Dựa vào kế hoạch năm học này tôi lên kế hoạch cho từng tuần, tháng, học kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình thực hiện tôi vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt, sáng tạo, khéo léo các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công tác chủ nhiệm cũng như giáo dục học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao.

         5.2.3. Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp:

         - Để làm đúng vai trò của một giáo viên chủ nhiệm đối với công tác tổ chức lớp thì người giáo viên phải bỏ ra nhiều công sức, vất cả trong việc theo dõi, quản lí lớp. Để làm tốt công tác của mình tôi thực hiện một số công việc sau:

         a. Xếp chỗ ngồi cho học sinh:

         Qua tìm hiểu về gia đình của học sinh tôi đã nắm được kết quả học tập của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi tôi chia đều những học sinh hoàn thành tốt, xuất sắc ngồi xen lẫn những học sinh hoàn thành, chưa hoàn thành các môn học nhằm mục đích học sinh hoàn thành tốt, xuất sắc sẽ giúp bạn mình cùng tiến bộ. Không nên cho những học sinh chưa hoàn thành các môn học ngồi gần nhau, không nên cho học sinh tuỳ tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi, hay nói chuyện, làm việc riêng trong lớp thường thích ngồi gần nhau.

         b. Xây dựng đội ngũ nhân sự của lớp:

         - Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS, khi lựa chọn nhân sự thì phải chọn những học sinh hoàn thành tốt, xuất sắc, đồng thời có nhận thức đúng đắn, Có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trung thực, lành mạnh, có uy tín, trách nhiệm, nhiệt tình. Có năng lực tổ chức vận động, Có khả năng tiếp thu và có ý thức tổ chức kỷ luật tốt được các bạn tín nhiệm.

         - Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu mỗi năm học.

         - Lớp được chia thành 3 tổ với các chức danh: 1 lớp trưởng, 1 lớp phó phụ trách học tập, 1 lớp phó phụ trách lao động, 1 lớp phó phụ trách văn nghệ, 3 tổ trưởng. Sau đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho bộ phận nhân sự đó.

         c. Phát huy năng lực tự học, tự quản của học sinh:

         - Để nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục song song việc cải tiến phương pháp dạy của giáo viên, thì việc “phát huy năng lực tự học của trò” là một yếu tố rất quan trọng hai vấn đề này cần phải diễn ra một cách tích cực và thường xuyên trong suốt quá trình dạy học. Đây cũng là điều cần và đủ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện.

         - Người giáo viên cần tin tưởng khả năng của học sinh, các em hoàn toàn có thể tự quản được nếu có sự tác động đúng cách của chúng ta. Người giáo viên luôn biết cách tạo cho các em sự tự tin vào khả năng của chính mình và tạo điều kiện để các em được thể hiện khả năng của mình trong công việc của tập thể.

         - Bồi dưỡng khả năng tự quản cho học sinh đòi hỏi phải có quá trình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ các em từ thấp đến cao, để các em tự lực giải quyết từ công việc đơn giản đến phức tạp. Biện pháp trong giai đoạn đầu là cầm taychỉ việc, sau đó để học sinh từng bước tự lực giải quyết những công việc cụ thể trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt động.

         - Phương hướng chung là tăng dần khả năng tự quản của học sinh đi đối với việc giảm dần sự tham gia cụ thể của người giáo viên trong hoạt động cho đến khi các em có thể chủ động hoàn toàn trong công việc.

         - Người giáo viên luôn luôn giữ vai trò là người cố vấn, hướng dẫn chứ không phải là người làm thay cho các em. Sự giúp đỡ của thầy cô cần đúng lúc, hợp lý; chủ yếu động viên, khích lệ tinh thần sáng tạo, nỗ lực vươn lên và phát huy năng lực sở trường của các em.

         d. Phát huy năng lực tự học, tự rèn, tự nâng cao cho học sinh:

         Học sinh sau quá trình học tập  tiếp thu kiến thức trên lớp các em phải tự thấm hiểu và vận dụng được kiến thức đã học muốn vậy đòi hỏi học sinh phải tự cân đối thời gian  học tập ở trường và thời gian học tập ở nhà trên cơ sở đó các em tự rèn luyện, tự trang bị, tự bổ sung kiến thức, kĩ năng cơ bản cần thiết. Tự đào sâu mở rộng kiến thức, tự hệ thống tổng hợp hoá kiến thức giúp các em hiểu kĩ, hiểu sâu, nắm chắc kiến thức đã học phục vụ hữu ích cho việc ôn tập kiểm tra. Thông qua đó hình thành cho học những thói quen, giúp cho học sinh yêu học tập và  ý thức  được học tập là một  nhu cầu cần thiết, từ đó tự  hình thành cho các em có động cơ và thái độ học tập đúng đắn .

         e. Giáo dục học sinh thực hiện tốt nội quy, nề nếp.

         - Việc thực hiện tốt nội quy nề nếp có vai trò quan trọng để đưa tập thể lớp đi lên. Do vậy giáo viên chủ nhiệm cần giáo dục các em tự giác thực hiện tốt nội quy nề nếp của trường lớp. Để rèn cho học sinh tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề thông qua các giờ sinh hoạt chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm cần phân tích cho học sinh thấy được mỗi học sinh trong lớp đều giữ vị trí quan trọng để đưa tập thể lớp đi lên, cho nên mỗi học sinh trong lớp cần phải cố gắng thực hiện tốt các nội quy, hạn chế vi phạm đến mức tối đa, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác.

         Ví dụ: Nội quy lớp học.

NỘI QUY LỚP HỌC

1.                 Đi học đúng giờ.

2.                 Học bài và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.

3.                 Thực hiện tốt việc vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp sạch sẽ.

4.                 Ra vào lớp phải xếp hàng.

5.                 Thực hiện tốt việc truy bài đầu giờ.

6.                 Quần áo, đầu tóc gọn gàng đúng quy định của nhà trường.

7.                 Bỏ rác đúng nơi quy định. Không được nhả kẹo cao su xuống nền gạch.

8.                 Có ý thức học tập, không làm việc riêng trong lớp.

9.                 Đoàn kết, thương yêu bạn bè, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

10.             Nghỉ học phải xin phép.

   

         - Giáo viên chủ nhiệm sẽ thông qua nội quy lớp ngay từ tuần đầu tiên nhận lớp cho học sinh nắm và yêu cầu học sinh nghiêm túc thực hiện. Bên cạnh đó giáo viên xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội quy, học sinh nào gương mẫu thực hiện tốt nội quy của lớp giáo viên sẽ biểu dương, khen thưởng. Học sinh nào vi phạm giáo viên nhắc nhở bằng biện pháp phù hợp.

         - Với những việc làm trên giúp giáo viên chủ nhiệm xây dựng tập thể lớp đoàn kết cũng như giúp học sinh hình thành được thói quen thực hiện nội quy nề nếp. Trong học kỳ I năm học 2020 – 2021 lớp 1/2 đã hạn chế việc học sinh lười học bài cũ và những vi phạm về nội quy nề nếp, đưa tập thể lớp đi lên rõ rệt.

         5.2.4. Công tác phối hợp với PHHS, BGH nhà trường , chính quyền địa phương.

         - Để giáo dục được những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục, bản thân của mỗi giáo viên cần phải biết phối hợp kịp thời, linh hoạt giữa nhà trường, gia đình và xã hội, giữa giáo viên và học sinh. Trong đó, giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò như là chiếc cầu nối, là mắt xích của sự kết hợp được thể hiện qua các mối quan hệ.

         - Liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh của lớp sẽ giúp cho chủ nhiệm nắm bắt rõ hơn về thời gian biểu của các học sinh cũng như các thói quen, sở thích và tính cách của từng học sinh. Một khi hiểu rõ học sinh của mình hơn thì giáo viên chủ nhiệm sẽ có nhiều giải pháp hơn để giúp học sinh của mình chuyên cần hơn trong việc học tập. Khi có học sinh bỏ học thì giáo viên chủ nhiệm cần phải thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà trường đồng thời sắp xếp thời gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin cùng nhau tìm các giải pháp phối hợp tốt nhất đưa học sinh trở lại trường. Qua đó đã thể hiện sự quan tâm sâu sát của nhà trường, đồng thời tạo được sự tin tưởng của phụ huynh học sinh đối với nhà trường khi con em mình được học tập ở tại trường. Học sinh sẽ trở nên chuyên cần, tích cực học tập hơn nếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình có hiệu quả đáng kể.

         5.2.5. Nâng cao chất lượng về các môn học và hoạt động giáo dục của học sinh:

         - Việc nâng cao chất lượng trong học tập của học sinh là rất quan trọng. Vì vậy với những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục, người giáo viên phải dựa vào từng loại học sinh chưa hoàn thành môn học nào để có các biện pháp giáo dục khác nhau như:

         - Đối với học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ lo làm ăn không quan tâm, nhắc nhở con em mình và vì kinh tế khó khăn nên học sinh này phải phụ giúp thêm cho gia đình như: chăm em, không có thời gian học bài, chuẩn bị bài nên sa sút trong học tập. Giáo viên phải luôn quan tâm, gần gủi hỏi han, động viên em và đến nhà gặp gỡ phụ huynh của em, nhắc nhở gia đình phối hợp tạo điều kiện và cần quan tâm để giúp các em có điều kiện học tập tốt, giúp em tiến bộ. Trên lớp người giáo viên phát động phong trào” Đôi bạn cùng tiến” để những học sinh hoàn thành tốt sẽ giúp các em này tiến bộ.  Ngoài ra để giúp đỡ cho gia đình giảm bớt đi phần nào khó khăn, giáo viên sẽ nhận đỡ đầu cho em mua cho em những cuốn sách, cây bút, hỗ trợ cho em một phần chi phí đóng góp đối với nhà trường. Sự gần gũi, chân thành, nhẹ nhàng của giáo viên đã giúp cho em vui vẻ, bớt mặc cảm mà sẽ thay đổi cố gắng hơn trong học tập.

         - Những học sinh chưa hoàn thành các môn học do mất kiến thức cơ bản từ lớp dưới, chậm tiến, chưa tự giác trong học tập. Thì giáo viên cần phải vừa giảng giải bài mới, vừa ôn lại kiến thức cũ cho học sinh, giảng lại những phần bài tập học sinh chưa hiểu, nên khơi lại trí nhớ của học sinh. Sau mỗi bài học nên hỏi học sinh đã hiểu bài chưa, học sinh nào còn lúng túng thì giáo viên sẽ giảng lại rồi gọi em đó lên thực hành làm bài tập để cho các em tiếp thu bài tốt hơn. Giáo viên sẽ ôn luyện, phụ đạo cho các em này vào các tiết học buổi chiều, giờ ra chơi giúp các em nắm được kiến thức cơ bản của chương trình học tập.

         Ví dụ: Em Nguyễn Tấn Phúc do học trước quên sau, chậm tiến, chưa tự giác trong học tập.Tôi đến gia đình gặp phụ huynh và phân tích rõ vai trò của cha mẹ phải biết quan tâm tới việc học của con mình. Đồng thời tôi quan tâm đến em hơn, giảng lại bài nếu em chưa hiểu để giúp em hiểu được kiến thức mới. Tôi  kiên trì giảng dạy, không quát mắng, trách phạt làm cho em cảm thấy xấu hổ với bạn bè mà chán nản học tập. Tôi luôn khích lệ, động viên học sinh. Ví dụ: Tuyên dương học sinh đó trước lớp vì các môn học của em đã tiến bộ hơn. Sau mỗi lần làm bài tập, trả lời câu hỏi… tôi luôn quan tâm, động viên nhẹ nhàng, khích lệ để giúp em tiến bộ, không nên chê trách.

         - Đối với học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục do ham chơi, không học bài. Giáo viên phải có biện pháp như kiểm tra bài thường xuyên, hàng ngày. Truy bài, kiểm tra việc làm bài tập của các em vào đầu giờ của mỗi tiết học. Bên cạnh đó giáo viên động viên các em bằng cách sau giờ học, chuyển tiết nên để học sinh đó lên hướng dẫn trò chơi cho cả lớp. Khi hướng dẫn cho cả lớp chơi trò chơi xong, giáo viên nên tuyên dương, cả lớp vỗ tay tuyên dương. Dần dần các em sẽ có chuyển biến tích cực, gần gũi thân thiện hơn với cô và các bạn, vì các em đã tự thấy rằng mỗi ngày đi học là một ngày vui, không cảm thấy bị căng thẳng, áp lực trong học tập mã sẽ có ý thức, tự giác trong học tập trở lại.

         Ví dụ: Em Trần Quốc Tuấn đến lớp chỉ thích chơi không thích học, tôi đã không bỏ rơi em mà gặp gỡ gia đình em để gia đình có biện pháp giáo dục giúp đỡ em. Tôi gắn bó, gần gũi từng bước làm thay đổi nhận thức của em, tôi luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến em, dành thời gian để củng cố những kiến thức bị hổng cho em. Cuối giờ học tôi lại dành thời gian tâm sự, động viên an ủi em, khuyên giải để em thấy rõ được tác hại của việc mê chơi. Với những thái độ dịu dàng chân thành ấy Bảo đã nhận thức được ham chơi là không tốt, quyết tâm chăm chỉ học hành.

         - Đối với những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục do nhút nhát, rụt rè, cha mẹ li hôn, ở với ông bà.

         - Giáo viên chủ nhiệm cần phải quan tâm tìm hiểu về tâm tư nguyện vọng của các em. Tuy là học sinh lớp1 nhưng các em cũng đã biết xấu hổ khi nói với người khác những ý nghĩ của mình, vì thế vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần giáo viên cần dành thời gian cho các em ghi chép những ý nghĩ, tình cảm, những điều các em thấy thay đổi trong hoàn cảnh sống của bản thân, các em cần nói, cần hỏi bỏ vào thùng phiếu kín theo từng chủ đề của từng tuần mà giáo viên đưa ra.

         Ví dụ: Tuần 1 – Tình cảm của em đối với ông bà.

                    Tuần 2 – Tình cảm của em đối với cha mẹ.

                    Tuần 3 – Những suy nghĩ và ước mơ của em…

         - Từ đó giáo viên có thể hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em để phân tích và hướng dẫn các em đi lên theo hướng tốt.

         - Giáo viên chủ nhiệm kể những tấm gương phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện để học sinh noi theo. Giáo dục ý thức cầu tiến trong mỗi học sinh, có như vậy học sinh mới có động cơ phấn đấu, mục đích cần phấn đấu và phấn đấu để đạt được một cái đích nhất định trong từng em học sinh tuỳ theo sức học và điều kiện của em đó.

         Ví dụ: Học sinh chưa hoàn thành phấn đấu lên hoàn thành.

                     Học sinh hoàn thành phấn đấu lên hoàn thành tốt.

                     Học sinh hoàn thành tốt phấn đấu lên hoàn thành xuất sắc.

          - Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm cần phát động phong trào thi đua học tập theo từng chủ đề như: “ Tuần học tốt ”; “ Đôi bạn cùng tiến ”; … sau mỗi đợt thi đua có nhận xét, đánh giá và động viên các em để các em có tinh thần tự giác nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng bài học, đồng thời dành nhiều thời gian cho các bộ môn mình học chưa tốt.

         5.2.6. Tổ chức các giờ sinh hoạt lớp.

         - Có thể nói giáo viên chủ nhiệm là cố vấn cho học sinh xây dựng lớp học thành đơn vị tập thể gắn bó, có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau, phát huy khả năng tự giác, tự quản tốt. Với vai trò cố vấn là người chủ nhiệm thống nhất yêu cầu về nội dung, hình thức hoạt động với ban cán sự lớp và gợi thêm vài vấn đề để các em hoạt động. Giáo viên chủ nhiệm vạch ra, định hướng nhằm giúp các em thể hiện tinh thần trách nhiệm mạnh dạn phê và tự phê giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

         - Điều quan trọng là giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của học trò mình về một giờ sinh hoạt lý tưởng. Tích cực, chủ động đa dạng hóa nội dung và hình thức sinh hoạt chủ nhiệm để vượt qua khỏi khuôn tư duy về một giờ chủ nhiệm đã được định hình sẵn bằng cách thay những giờ“xử án ” học trò bằng những trò chơi nhận thức và bằng những câu chuyện thời sự trong tuần để nhắc nhở, làm cho HS nhận ra được lỗi lầm của mình và tự nhận lấy hình phạt của riêng mình thông qua các trò chơi và các câu chuyện thú vị.

         - Để tổ chức giờ sinh hoạt lớp đạt kết quả cao thì giáo viên chủ nhiệm thật tế nhị, khéo léo để tạo không khí vui vẻ, nhẹ nhàng, thoải mái trong các giờ sinh hoạt. Vì vậy giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ la mắng, kiểm điểm học sinh vi phạm hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc, gây căng thẳng dẫn đến học sinh cảm thấy sợ hãi, nhàm chán mỗi khi đến giờ sinh hoạt. Nên giáo viên chủ nhiện cần linh hoạt trong giờ sinh hoạt có thể bằng những hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho tương lai, sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ ước hoài bão, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn minh trong cách tặng quà ... Có thể thay những lời phê bình gay gắt bằng một câu chuyện nào đó.

         - Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những việc làm tốt và chưa tốt, thiết kế, đề xuất các việc làm, hoạt động hằng tháng và cả năm học. Cùng nhau xây dựng nội quy của lớp, xây dựng tập thể lớp đoàn kết một cách nhẹ nhàng mà không căng thẳng.

         Ví dụ: Xây dựng nội quy lớp học :

         Căn cứ vào Điều lệ và nội quy của nhà trường, nhiệm vụ năm học, giáo viên chủ nhiệm yêu cầu HS quán triệt và có thể bổ sung thêm những chuẩn mực khác tạo nên văn hoá của tập thể lớp. Xây dựng nội quy lớp học với sự tham gia của học sinh toàn lớp.

         Bước 1: GVCN nêu vấn đề, các tổ thảo luận các câu hỏi:

         - Em mong muốn lớp mình trở nên như thế nào?

         - Em mong muốn gì ở thầy cô và bạn bè?

         - Để đạt được những điều mong đợi, mỗi người nên làm gì? Không nên làm gì?

         Bước 2: Làm việc chung toàn lớp:

         - Các tổ trình bày ý kiến của tổ mình trước lớp

         - GVCN cùng cả lớp dựa trên ý kiến của các tổ thảo luận, xây dựng, thống nhất nội quy của lớp.

         - GVCN cùng cả lớp tiếp tục thảo luận về chế độ khen thưởng, kỉ luật đối với những việc làm đáng khen và đáng chê trên cơ sở các câu hỏi sau:

         + Ai sẽ giám sát việc thực hiện nội quy lớp học?

         + Điều gì sẽ cản trở việc thực hiện nội quy lớp học? Mỗi người phải vượt qua những thách thức, thói quen nào? Liệu có thể vượt qua hoặc thay đổi không?

         + Nếu vi phạm nội quy thì sẽ xử lí như thế nào? Nếu thực hiện tốt nội quy thì sẽ được khen thưởng ra sao?

         - Khi thảo luận chung cả lớp giáo viên rút ra kết luận và đưa ra hướng đi chung cho lớp, cùng nhau xây dựng tập thể lớp tốt, đoàn kết, biết giúp đỡ nhau trong học tập và sinh hoạt.

         - Cuộc sống hiện nay đã quá nhiều áp lực và trách nhiệm của thế hệ trẻ trở nên ngày càng nặng nề hơn. Vì thế, người thầy ngày nay không thể đem khuôn mẫu cũ khi không còn phù hợp với tâm lý để giáo dục học trò. Học trò càng năng động, càng tích cực, càng sáng tạo, muốn chinh phục và thể hiện bản thân nhiều hơn. GVCN cũng cần phải bản lĩnh hơn, khéo léo hơn, tinh tế và sáng tạo hơn, đa dạng hơn trong nhiệm vụ giáo dục HS để giờ chủ nhiệm không còn là giờ “hành hạ”, giờ “xử án” trong tâm trí các em. Bởi tập thể lớp học như một gia đình thứ hai mà trong đó người GVCN đóng vai trò là cha là mẹ, quán xuyến và hướng dẫn bằng sự khéo léo, tình yêu thương, sự tin tưởng, nhiệt thành chứ không phải quản lý theo bất cứ khuôn mẫu nào…

         5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:

         Qua những năm giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm tôi đã áp dụng các biện pháp như đã trình bày ở phần trên để giáo dục học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục. Tính hiệu quả của các biện pháp này  là rất khả quan.

         6. Những thông tin cần được bảo mật: Không

         7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

         Để làm tốt công tác giáo dục học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục giáo viên chủ nhiệm cần làm tốt những việc sau:

         - Giáo viên phải nắm rõ hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng... của trẻ để có biện pháp giáo dục thích hợp.

         - Có biện pháp giáo dục riêng cho từng đối tượng học sinh, không giáo dục chung chung.

         - Luôn luôn kết hợp với gia đình, hội cha mẹ học sinh, nhà trường, chính quyền địa phương để giúp học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục.

         - Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên trao đổi gặp gỡ phụ huynh học sinh để giáo dục giúp đỡ các em cùng tiến bộ.

         - Cần vận dụng các biện pháp giáo dục học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục một cách khéo léo.

         - Luôn tạo cho các em cảm giác an toàn, thân thiện .

         - Cần phối hợp với các BCH công Đoàn, Đội TN, Hội CMHS,…thường xuyên để giáo dục các em kịp thời.

         8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

         a. Kết quả:

         Qua nhiều năm giảng dạy lớp 1, thường xuyên vận dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy những học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục của lớp tôi bước đầu đã tiến bộ đọc viết tốt hơn, làm toán nhanh hơn và chính xác hơn. Nhờ sự nổ lực hết mình của cả  thầy và trò nên tôi đã thành công trong việc “ xoá sổ” nhanh hiện tượng học sinh chưa hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục. Chính vì vậy mà cuối học kì I  năm học 2020 -2021 đã đạt được kết quả như sau:

         * Đánh giá thường xuyên đối với các môn học và hoạt động giáo dục năm học 2019 – 2020:

MÔN

TSHS

Đánh giá thường xuyên đối với các môn học, hoạt động giáo dục

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

TS

%

TS

%

TiếngViệt

21

21

100

0

0

Toán

21

21

100

0

0

Tự nhiên và Xã hội

21

21

100

0

0

Tiếng Anh

21

21

100

0

0

Hoạt động giáo dục (AN,MT,TD,TC,KT)

 

21

21

100

0

0

 

         * Đánh giá định kỳ (Bài kiểm tra cuối kỳ II) đối với các môn học:

 

MÔN

TSHS

ĐIỂM 5 TRỞ LÊN

%

ĐIỂM DƯỚI 5

%

Tiếng Việt

24

24

100

0

 

Toán

24

24

100

0

 

Tiếng Anh

24

24

100

0

 

 

         * Đánh giá thường xuyên đối với các môn học và hoạt động giáo dục HKI (Năm học 2020 – 2021).

 

MÔN

TSHS

Đánh giá thường xuyên đối với các môn học, hoạt động giáo dục

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

TS

%

TS

%

TS

%

TiếngViệt

21

5

23,8

15

71,4

1

4,8

Toán

21

5

23,8

15

71,4

1

4,8

Tự nhiên và Xã hội

21

5

23,8

16

76,2

0

0

Tiếng Anh

21

4

19,1

17

81

0

0

Hoạt động giáo dục (AN,MT,GDTC)

 

21

7

33,3

14

66,7

 

 

         * Đánh giá định kỳ (Bài kiểm tra cuối kỳ I) đối với các môn học:

 

MÔN

TSHS

ĐIỂM 5

TRỞ LÊN

%

ĐIỂM DƯỚI 5

%

Tiếng Việt

21

20

95,2

1

 

Toán

21

20

95,2

1

 

Tiếng Anh

21

21

100

0

 

    

         b. Bài học kinh nghiệm:

Từ thực tiễn cho thấy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, cho học sinh Tiểu học nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đó là trách nhiệm của mỗi tổ chức xã hội, mọi người, mọi gia đình, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của ngành giáo dục trong đó vai trò của các trường học rất quan trọng. Giáo dục đạo đức cho học sinh bậc tiểu học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh. Từ việc đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, qua tìm hiểu thực tế giáo dục đạo đức ở một số lớp, ở một số giáo viên có kinh nghiệm, tôi khái quát dưới đây một số bài học kinh nghiệm về giáo dục đạo đức cho học sinh

 Nguồn: ST


Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post