Skkn Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi

 


Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi

1.Phần mở đầu:

 1.1.Lý do chọn đề tài:

Giáo dục mầm non là ngành giáo dục hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đến trường trẻ được học, được chơi, được tiếp xúc với nhiều bạn, được sống trong tình thương của cô giáo, được khám phá thế giới bí ẩn xung quanh, biết cách sống tự lập cao. Nhờ quá trình giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẫm mĩ, tâm lí, tình cảm .

Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu từ bên ngoài. Nếu như chúng ta không biết cách uốn nắn và dạy dỗ trẻ đúng cách thì sẽ gây khó khăn cho các bậc học  sau.

Chính vì vậy mà người lớn chúng ta cần phải rèn luyện những thói quen tốt cho trẻ ngay từ nhỏ. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con.Và cũng không ít trẻ mầm non vì quá được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại và chỉ biết trông chờ người khác  phục vụ. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến trẻ lười biếng, thụ động và sẽ gặp khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng là vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non. Như ông bà xưa thường nói “ dạy trẻ từ thưở lên ba”

          Nếu các con không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, các con sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại.

Nếu trẻ biết tự phục vụ bản thân , trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần, từ đó sẽ xây dựng những kỹ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần những tác động khác nhau đên kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện, là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ.

Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến những biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ của trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy 3 - 4 tuổi.Theo nghiên cứu thì trẻ ở lứa tuổi này não bộ vẫn rất dễ dàng tiếp thu và thay đổi, đặc biệt là trong những tình huống kích thích cảm xúc của bé và sau khi trẻ chơi những trò chơi đòi hỏi sự hoạt động cơ thể. Vì thế những kinh nghiệm tích cực mà trẻ thu được trong thời kỳ này rất quan trọng đối với sự phát triển kỹ năng lâu dài và toàn diện của trẻ. Nó giúp trẻ hình thành những thói quen tốt ngay từ nhỏ, trẻ có sự chủ động trong cuộc sống sau này. Là giáo viên mầm non, làm thế nào để giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi đạt hiệu quả tốt nhất là vấn đề khiến bản thân tôi hết sức băn khăn trăn trở.

Qua việc tìm tòi, nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng tự phục vụ đối với sự phát triển của trẻ. Bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn và thực hiện  đề tài “ Một số biện pháp giúp trẻ 3- 4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân có hiệu quả”.

 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài.

Qua thực tế tôi thấy tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ ở trường mầm non. Tôi mong muốn tìm ra một số biện pháp cụ thể, yêu cầu giáo viên thực hiện để giúp các cháu phát triển tính chủ động, mạnh dạn, tự tin cho trẻ ở trường mầm non. Đề tài này tôi nghiên cứu, đúc rút từ công tác giảng dạy ở đơn vị của tôi. Và có thể áp dụng cho các đơn vị khác ở trong huyện, trong tỉnh và ngoài tỉnh.

2. Nội dung:

          2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.

  Trẻ ở giai đoạn 3- 4 tuổi đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát triển của trẻ mầm non. Ở độ tuổi này , trẻ bắt đầu hình thành khả năng suy nghĩ muốn tự lập, muốn làm cái này, cái kia một mình. Tính tự lập là một biểu hiện tâm lý có ảnh hưởng trực tiếp đên quá trình phát triển và hình thành các phẩm chất nhân cách cho trẻ. Một số dấu hiệu bắt đầu hình thành tính tự lập, đó là như cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn làm một số công việc đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lúc còn nhỏ không những tạo cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng giúp trẻ hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống cho trẻ sau này.

Thực tế cho thấy, đa phần các cháu sống rất ích kỹ, chỉ biết đến bản thân, chỉ biết nhận biết, hưởng thụ mà không biết cho đi. Ở trường cũng như ở nhà, các em hầu như hoàn toàn thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại phụ thuộc vào người lớn.

Đối với giáo viên đa số đã có nhận thức đầy đủ và có thái độ đúng trong việc giáo dục tính tự lập cho trẻ lên ba.Song về hướng dẫn hoạt động để trẻ có kỹ năng tự phục vụ thì vẫn còn hạn chế.Nguyên nhân là do người giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để dạy trẻ tính tự lập, bên cạnh đó là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian. Vì vậy để hình thành và phát triển tính tự phục vụ cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo bé nói riêng thì giáo viên mầm non cần kết hợp với cha mẹ trẻ để có những biện pháp phù hợp nhằm phát huy khả năng tự phục vụ bản thân, làm cơ sở cho sự hình thành và  phát triển nhân cách ở trẻ sau này.

Tự phục vụ là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước mọi thử thách.

Khi nhắc đến dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non là dạy trẻ những thói quen sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp, ứng xử của trẻ đối với bản thân và mọi người xung quanh.

          2.1.1. Thuận lợi.

- Nhà trường nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lảnh đạo Đặc biệt là phòng giáo dục về việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho giáo dục trẻ mầm non.

- Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên được học tập nâng cao chuyên môn, mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi để đảm bảo chất lượng trong chăm sóc và giáo dục trẻ.

- Bản thân tôi cũng cố gắng trong quá trình tự học, tự làm đồ dùng đồ chơi cho các góc.

-Tôi luôn chú ý, tìm tòi, tích lũy thêm kiến thức để tận dụng những phế liệu làm ra các đồ dùng đồ chơi mới thu hút trẻ đồng thời tôi cũng học hỏi các đồng nghiệp qua các buổi dự giờ hoạt động và tìm hiểu qua các loại sách báo để có kế hoạch sắp xếp hoạt động góc theo từng chủ đề với sự hứng thú của trẻ

- Các giáo viên trong lớp đều có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ.Các cô đều nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn .

2.1.2. Khó khăn.

- Khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều. Có một số trẻ còn chưa biết nói, hoặc nói chưa thạo nên gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn của mình cho cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe nhưng không hiểu được các yêu cầu của cô, thích tự làm theo ý mình nên việc rèn luyện kĩ năng cho trẻ gặp nhiều khó khăn.

- Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ.

- Lớp có 32 trẻ là quá đông, trong khi đó có nhiều trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp.

- Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: intrenet, tivi, các trò chơi điện tử.....nên trẻ không có hứng thú với các kỹ năng tự phục vụ.

- Trẻ đa số được bố mẹ nuông chiều, sống trong bao bọc nên có tính ỷ lại, ích kỷ.

2.1.3. Khảo sát thực trạng.

Đầu năm tôi đã khảo sát thực tế và khả năng trẻ tự phục như sau:

TT

Nội dung khảo sát

Đạt

Chưa đạt

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

1

Xếp hàng đúng cách

15

46,8

17

53,1

2

Tự lấy và cất ghế

20

62,5

12

37,5

3

Tự xúc cơm ăn

20

62,5

12

37,5

4

Tự lấy cốc và uống nước đúng cách

22

68,7

10

31,2

5

Tự rửa tay

17

53,1

15

46,8

6

Tự xúc miệng sau khi ăn cơm

20

62,5

12

37,5

7

Tự lấy tay che miệng khi ho

17

53,1

15

46,8

8

Tự biết cách lau mặt

15

46,8

17

53,1

9

Tự biết lau miệng đúng cách

17

53,1

15

46,8

10

Tự biết mặc, cởi áo

15

46,8

17

53,1

11

Tự biết cách dép và đi dép

22

68,7

10

31,2

12

Tự biết cài khuy áo

17

53,1

15

46,8

13

Tự biết lấy và cất gối

20

62,5

12

37,5

14

Tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định

20

62,5

12

37,5

15

Khả năng trẻ tự làm được không cần cô nhắc nhở

5

15,6

27

84,3

Bảng 1: Bảng khảo sát khả năng tự phục vụ của trẻ trong lớp

2.1.4. Nguyên nhân: Thời gian đầu khi tôi mới nhận lớp, tôi thấy khả năng nhận thức của trẻ còn chưa có, khả năng tự phục vụ của trẻ còn rất hạn chế. Có nhiều trẻ nói có chưa rõ, chứ biết những kỹ năng tự phục vụ đơn giản như : Có những trẻ muốn uống nước nhưng không biết lấy nước uống, không biết cách cầm cốc lấy nước sao cho đỡ đổ, một số trẻ có như cầu đi vệ sinh nhưng không biết cởi quần và mặc quần nên thường hay đái dầm luôn ra quần, ... Bên cạnh đó có những trẻ nghe chưa kịp hoặc không hiểu những hiệu lệnh của cô nên không thực hiện được. Tuy nhiên cơ một số trẻ lại có những kỹ năng tự phục vụ rất tốt nhưng thiếu tính chủ động nên trẻ luôn chờ đợi người lớn nhắc nhở mới thực hiện.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Có thể hiểu ở đây hai vấn đề: hành động và kỹ năng. Khi tôi dạy trẻ rằng: con hãy lau mặt cho sạch, trẻ thực hiện yêu cầu của cô, đó là hành động. Hầu hết các trẻ lứa tuổi mầm non đều biết các hành động đơn giản: nhặt rác, chào hỏi người lớn, xin lỗi và cám ơn... Nhưng để những hành động đó trở thành kỹ năng thì lại cần một quá trình giáo dục. Hành động của trẻ trở thành kỹ năng khi trẻ thấy tay bẩn trẻ đi rửa tay, mặt bẩn trẻ đi lau mặt, ăn cơm xong là đi chải răng chứ không cần ai nhắc nhở, vì khi đó trẻ làm vì ý thức: thấy tay bẩn, mặt bẩn thì đi rửa tay, rửa mặt, chải răng ngay sau khi ăn để răng sạch chứ không làm vì người khác sai bảo.

Như vậy, bên cạnh việc dạy trẻ các hành động vệ sinh cá nhân: rửa tay, lau mặt, chải đầu tóc, gấp quần áo hay nói chung là giữ gìn vệ sinh cá nhân... chúng ta cần dạy trẻ ý thức được những việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không phải vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của trẻ được hình thành và theo trẻ đến suốt cuộc đời. Khi hiểu được bản chất của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ: "đưa hành động vào trong ý thức" thì việc dạy kỹ năng sống cho trẻ nên đơn giản và các bậc cha mẹ và cô giáo đều có thể thực hiện được mà không phải băn khoăn là làm sao để dạy trẻ kỹ năng sống.

Trong phạm vi đối tượng cần dạy là 3- 4 tuổi, dạy trẻ một số kỹ năng phục vụ, tôi đã đề ra một số biện pháp sau:

2.2.Các giải pháp.

2.1 . Biện pháp 1: Lập kế hoạch thực hiện rèn trẻ các kỹ năng trong 1 năm học.

Đối với trẻ 3- 4 tuổi thì nhận thức của trẻ là còn hạn chế. Vì vậy để trẻ dễ hiểu hơn và để dễ đánh giá kết quả của trẻ. Tôi đã định ra các kế hoạch và lồng ghép vào các hoạt động trong ngày theo từng tháng như sau:

TT

KỸ NĂNG

 

T8

T9

T10

T11

T12

T1

T2

T3

T4

T5

1

Cách  xếp hàng

x

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2

Cách lấy và cất ghế

x

x

 

 

 

 

 

 

 

 

3

Cách cất dép và đi dép giầy

 

x

 

 

 

 

 

 

 

 

4

Cách cất đồ dùng , đồ chơi đúng nơi quy định

 

x

 

 

 

 

 

 

 

 

5

Cách sử dụng bát, thìa,cốc đúng cách

 

 

x

 

 

 

 

 

 

 

6

Cách lấy nước và uống nước

 

 

x

 

 

 

 

 

 

 

7

Cách lấy và cất gối

 

 

 

x

 

 

 

 

 

 

8

Cách rửa tay

 

 

 

x

 

 

 

 

 

 

9

Cách xúc miệng sau khi ăn

 

 

 

 

x

 

 

 

 

 

10

Cách sử lý khi ho

 

 

 

 

x

 

 

 

 

 

11

Cách lau mặt

 

 

 

 

 

x

 

 

 

 

12

Cách mặc và cởi quần áo

 

 

 

 

 

 

x

 

 

 

13

Cài khuy áo

 

 

 

 

 

 

 

 

x

 

 

Ngoài việc thường xuyên nhắc nhở, dạy trẻ các kỹ năng. Tôi vạch ra kế hoạch đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này ngoài các kỹ năng trẻ đã biêt thì sẽ dậy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm như vậy trẻ sẽ nhớ hơn là dạy trẻ liền một lúc nhiều kỹ năng , sau rồi trẻ không nhớ gì. Đưa các kỹ năng theo tháng cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ năng gì mà không bị bỏ quên, hay sót các kỹ năng.

2.2.Biện pháp 2: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.

a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.

- Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.

- Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau:

- Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.

- Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạt nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..

- Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.

- Biết gấp cất trải nệm, gối.

- Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.

- Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.

- Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh.

- Các kỹ năng cần rèn cho trẻ.

- Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân.

- Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.

- Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…

b. Giáo viên cần nắm được các trình tự sau đây để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

- Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân.

Ví dụ: Để trẻ thực hiện được các thao tác rửa tay, cô giáo cần làm mẫu từng bước  rửa tay cho trẻ quan sát và thực hiện theo.

- Các cháu mẫu giáo bé tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ  ràng, chính xác, dể hiểu.

Ví dụ: Cô giáo cần giúp trẻ hiểu vì sao mỗi khi học tập xong, sau khi đi đại tiện trẻ cần phải rửa tay sạch sẽ? Ngoài phương pháp dùng lời, cô có thể kèm với lời giải thích bằng tranh, phim ảnh...

- Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể làm tốt các công việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích.

Cô có thể tập trước cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.

Ví dụ: Thực hiện đúng lịch hoạt động vệ sinh hàng ngày của trẻ để hình thành nền nếp kỹ năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cho trẻ.

c) Giáo viên tổ chức một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân trẻ:

- Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp:

Các cháu ở tường mầm non thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ.

Ví dụ: Lớp học sạch đẹp cháu sẽ không vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.

Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt cho trẻ.

- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh: Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.

Ví dụ: Trang trí, sắp xếp lớp học gọn gàng, ngăn nắp; rửa tay sau mỗi hoạt động dạy học; giữ vệ sinh môi trường trường lớp sạch đẹp...

2.3. Biện pháp 3: Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động hàng ngày.

a. Muốn thực hiện được những quy định thì phải có phương tiện thực hiện.

- Tham mưu nhà trường, phụ huynh học sinh tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh.

Ví dụ: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.

- Trang bị, bổ sung đủ các trang thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ ở lớp.

Ví dụ: Mỗi cháu 1 khăn mặt, 1 bàn chải răng, 1 cốc uống nước riêng có kí hiệu tên trẻ; Khăn thêu tên, bìa hồ sơ để lưu bài học theo chủ đề, đồ dùng học tập của cá nhân trẻ đều ghi tên kí hiệu riêng từng cháu. 

-  Giữ sạch sẽ nhà vệ sinh của trẻ:

Nhà vệ sinh nếu không được giữ vệ sinh sạch sẽ là nơi dễ mang mầm bệnh, vì thế nhà vệ sinh dành cho trẻ cần được chú ý giữ gìn sạch sẽ, thông thoáng không để có mùi hôi. Thường xuyên chà rửa, lau chùi nhà vệ sinh bằng dung dịch nước vệ sinh, nước lau nhà vừa vệ sinh sạch sẽ vừa giúp phòng tránh được các mầm bệnh cho trẻ, giúp trẻ thoải mái khi sử dụng nhà vệ sinh.

Ví dụ: Chà sạch sẽ nhà vệ sinh mỗi ngày, giữ sạch sẽ các dụng cụ vệ sinh. 

Ngoài ra, còn dán các hình ảnh thực hiện các thao tác và hành động thực hiện vệ sinh dán trên vách lớp, trong nhà vệ sinh ngay chỗ đặt bồn rửa tay của trẻ hoặc nơi trẻ tiểu tiện với mục đích thường xuyên nhắc nhở trẻ có thói quen vệ sinh đồng thời thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và các hành vi văn minh.

Tham mưu cùng nhà trường trang bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh cho trẻ: khăn lau tay, lau mặt, bàn chải đánh răng, ca múc nước, xà phòng… chú ý sắp xếp ngăn nắp, vừa tầm tay trẻ giúp trẻ dễ lấy sử dụng.

          Ví dụ: Xà phòng để trong rổ nhỏ hoặc túi lưới treo cạnh bồn rửa tay; các loại khăn treo trên giá thấp ngang tầm với trẻ và thường xuyên giặt sạch, phơi khô dưới ánh nắng mặt trời; bàn chải đánh răng rửa sạch phơi nắng và cắm vào trong một giá để bàn chải…

b. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày

* Giờ đón trẻ: tôi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cô, tôi hướng dẫn trẻ xếp mũ nón bảo hiểm, cặp vào kệ, giúp trẻ chải lại đầu tóc, hướng dẫn trẻ xếp dép đúng chân ngay ngắn lên kệ dép.

* Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay, lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.

  Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.

Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.

         * Khi trẻ uống nước: dạy và nhắc trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, không làm rơi cốc, không rót nước quá đầy, không thò tay vào thùng chứa nước thừa, không uống nước sống...

* Hoạt động vệ sinh: rửa tay - rửa mặt:

Rửa tay - rửa mặt: đúng cách, đúng kỹ năng vệ sinh tay - mặt cô hướng dẫn.

 * Dạy trẻ biết tự mặc quần áo: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo - thường xuyên tắm rửa thay quần áo.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi  học, khi đi đến những nơi công cộng hoặc dự lễ hội.

* Giờ đón và trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô giáo dục các cháu kỹ năng tự phục vụ của trẻ.

Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh các thao tác rửa tay hoặc giờ giấc hoạt động  của trẻ trong một ngày.

Nhắc nhở phụ huynh cho con tự cất đồ dùng cá nhân của mình vào đúng tủ, đúng nơi quy định, đúng ký hiệu. Bố mẹ cùng hướng dẫn con cất các đồ dùng đó ngay ngắn. Tuyệt đối bố mẹ không nên làm hộ con. Hơn nữa bố mẹ khi đưa con đi học cùng kiểm tra xem con đã cất đúng đồ dùng cá nhân của mình chưa cùng với các cô.

          Ví dụ: Trẻ khi đi đến lớp sẽ tự cầm dép của mình và cất vào chỗ có ký hiệu để dép của mình, để ngay ngắn.

          * Giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm giúp cô những việc vừa sức của mình và rèn cho trẻ có các thói quen tốt. Đó là cho trẻ xếp hàng đi lấy gối, xếp gối và cất gối đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy

* Thực hiện đúng chế độ hoạt động vệ sinh của trẻ:

  Để hình thành thói quen và nền nếp thực hiện các kỹ năng cho trẻ, tôi luôn thực hiện đúng theo lịch hoạt động vệ sinh ở trường.

  Thực hiện chế độ sinh hoạt vệ sinh đều đặn, hợp lý: luôn luôn tổ chức cho trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh đúng giờ, chú ý quan sát, theo dõi khi trẻ để kịp thời nhắc nhở trẻ làm  theo quy định.Nhắc nhở trẻ, động viên trẻ kịp thời để trẻ tiếp thu và thực hiện tốt nhất.

Ví dụ như: Khi dậy trẻ vào các hoạt động cần dùng đến ghế để ngồi tôi sẽ rèn trẻ cách be ghê đúng cách, bê bằng hai tay, lấy lần lượt từ trên xuống, không chen lấn nhau khi lấy.

          Và khi cất ghế trẻ cũng phải bê ghê hai tay, xếp lần lượt, ngay ngắn, đúng nơi quy định, không xếp quá cao.

2.4. Biện pháp 4: Lồng ghép một số bài thơ khi dạy kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:

Để trẻ dễ nhớ, dễ thực hiện thì khi dậy trẻ kỹ năng nào tôi sẽ dạy trẻ một bài thơ. Trẻ sẽ đọc thơ và làm theo.Như vậy trẻ sẽ sẽ rất hứng thứ vì trẻ vừa đọc thơ và vừa được diễn lại. Trẻ không có cảm giác bị ép buộc khi học. Và lại khi đọc thơ trẻ sẽ rất nhớ các bước hơn là mình nói bằng lý thuyết.

Ví dụ: Khi dạy trẻ kỹ năng xếp hàng tôi sẽ lồng ghép bài thơ “ Quy tắc xếp hàng”

          Quy tắc xếp hàng

Trong lúc xếp hàng

          Bé đừng chen lấn

          Đợi chờ kiên nhẫn

Có gì khó đâu

Đến trước, đứng trước

Đến sau , đứng sau

Nét đẹp văn hóa

- Hay khi dạy kỹ năng rửa tay có rất nhiều kỹ năng khó và các bước. Trẻ rất khó nhớ. Thậm chí khi thực hiện trẻ sẽ sợ và làm không đứng yêu cầu kỹ năng cần đặt ra. Vì vậy, để cho trẻ nhớ tôi sẽ vừ cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay” và trẻ thực hiện.

  Bài thơ: Rửa tay

Bé làm ướt tay nào

Bánh xà phòng nho nhỏ

                                         Em xát lên bàn tay

                                       Nước máy đầy trong vắt

                                         Em rửa đôi bàn tay

                                        Xoa lòng bàn tay nào

                                       Rồi đến kẽ ngón tay

                                       Đổi bên làm lại nào

                                       Tiếp đến xoay cổ tay

                                         Ôi bé  thật là giỏi

                                        Đổi bên xoay tiếp nha

                                        Chụm đầu ngón tay lại

                                        Rửa cho sạch nhé bé

                                        Khăn mặt đây thơm phức

                                       Bé hãy lau khô tay

                                       Đôi bàn tay be bé

                                       Nay rửa sạch, xinh xinh

                                       Cùng giơ tay vỗ vỗ.

-         Và khi dậy kỹ năng lau mặt tôi cho trẻ đọc bài thơ “ Bé tập rửa mặt”

 Bài thơ: Bé tập rửa mặt

Một tay chẳng làm được

Bé phải lau hai tay

Bắt đầu từ mắt này

Lau từ trong ra nhé

Nhích khăn lên các bé

Lau sống mũi xuống đi

Sau đó đến cái gì

Cái miệng xinh của bé

Cô cất giọng nhỏ nhẹ

Làm thế nào nữa đây?

Bé gấp đôi khăn ngay

Lau hai bên má đỏ

Gấp đôi một lần nữa

Lau cái cổ cái cằm

Mắt bé nhìn chăm chăm

Kìa cô khen bé giỏi.

-         Tiếp khi dạy đến kỹ năng xử lý khi ho tôi cũng tự sáng tác bài thơ “Cô dạy bé” để cho trẻ dễ nhớ.

 

Bài thơ: Cô dạy bé

Bé đến lớp

Cô dạy bé

Bé nhớ nhé

Nếu bị ho

Hay hắt hơi

Bé lấy ngay

Tayche miệng

Thế mới ngoan

Ai cũng yêu.

-   Nhờ có việc dậy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các bài thơ nên trẻ rất nhớ, và thực hiện khá tốt các kỹ năng được học.

2.5. Biện pháp 5: Tuyên truyền, phối hợp phụ huynh học sinh dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ :

  Muốn trẻ hình thành được các kỹ năng tự phục vụ tốt thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục kỹ năng phục vụ cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ.

  Ví dụ: Cần duy trì thực hiện nề nếp cho trẻ lau miệng, xúc miệng nước muối sau bữa ăn  ở trường cũng như ở nhà.

Để thu hút sự chú ý của phụ huynh đến góc tuyên truyền cần trang trí thật đẹp bảng thông tin tuyên truyền dành cho phụ huynh. Các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục của con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.

Ví dụ: Giáo viên có thể tuyên truyền về hình ảnh hướng dẫn các bước rửa tay, kết quả tình hình sức khỏe của trẻ... Phụ huynh có thể ghi chép một số bài hát, bài thơ, câu chuyện có nội dung dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ

Ngoài ra cần tiếp tục xây dựng thư viện cho bé tại lớp, tại nhà, khuyến khích các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe. Để duy trì bổ sung nhu cầu đọc sách của trẻ, cần thường xuyên vận động cha mẹ quan tâm tặng sách cho góc thư viện của lớp và trang bị phong phú cho góc sách ngay tại gia đình.

Ví dụ: Tạo điều kiện mời phụ huynh đến tham quan góc thư viện của bé, quan sát giờ đọc sách, xem tranh của bé. Qua đó, vận động phụ huynh tặng sách cho góc thư viện của lớp.

Quan trọng nhất là hàng ngày giáo viên cần kiểm tra kỹ năng  trẻ về một số vấn đề đơn giản như: trước khi đi học các con đã rửa tay, chân, mặt mũi sạch sẽ chưa?…. Và phải động viên kịp thời khi trẻ thực hiện đúng được một trong những vấn đề vệ sinh như đã rửa tay chân, rửa mặt sạch.

Ví dụ: Đưa vào tiêu chuẩn nêu gương để giúp trẻ thực hiện tốt theo quy định.

Bên cạnh đó cần động viên, khuyến khích những trẻ chưa thực hiện tốt lần sau cố gắng thực hiện tốt như các bạn.

Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định, treo áo, mũ, để dép vào đúng nơi quy định, quét dọn lớp khi lớp bẩn, biết kê bàn ghế lại cho gọn gàng khi bàn ghế để không ngay ngắn.

Trước khi ra về, cô nhắc trẻ về nhà tắm rửa sạch sẽ, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.,….Cứ như thế, hàng ngày, hàng ngày cô động viên kịp thời trẻ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, để dép, mũ,…đúng nơi quy định sẽ giúp cho trẻ dần dần hình thành được thói quen tốt .

3.Kết luận:

           3.1.Ý nghĩa của đề tài:

Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục bản thân mà tôi đã đúc kết trong quá trình dạy học, sáng tạo và đưa và sử dụng. Các biện pháp tôi đưa ra đã được ban giám hiệu và đồng nghiệp đánh giá cao.Nhờ có các biện pháp trẻ đã có các kỹ năng tự phục vụ bản thân được tốt nhất. Tạo cho trẻ tính tích cực, chủ động , sáng tạo trong các hoạt động .

          * Về phía giáo viên

Nắm được mục đích, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ

Nắm vững phương pháp dạy kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động cho trẻ.

Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ .

Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

           * Về phía trẻ

100% trẻ thích đến trường

100% trẻ đều được cha mẹ tạo điều kiện và khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.

100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ bản thân, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hằng ngày trong cuộc sống của trẻ.

100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.

  80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt với các chỉ tiêu cụ thể đạt được như sau: mạnh dạn tự tin đạt 84%; kỹ năng tự lập, tự phục vụ: 93%; kỹ năng vệ sinh: 84%;

Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 95 % trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ.

 

 

 

 

 

 

Kết quả đánh giá trên trẻ cuối năm như sau:

TT

Nội dung khảo sát

Đầu năm đạt

Cuối năm đạt

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

1

Xếp hàng đúng cách

17

53,1

32

100

2

Tự lấy và cất ghế

12

37,5

33

100

3

Tự xúc cơm ăn

12

37,5

32

100

4

Tự lấy cốc và uống nước đúng cách

10

31,2

32

100

5

Tự rửa tay

15

46,8

27

84,3

6

Tự xúc miệng sau khi ăn cơm

12

37,5

27

84,3

7

Tự lấy tay che miệng khi ho

15

46,8

32

100

8

Tự biết cách lau mặt

17

53,1

27

84,3

9

Tự biết lau miệng đúng cách

15

46,8

27

84,3

10

Tự biết mặc, cởi áo

17

53,1

30

93,7

11

Tự biết cách cất dép và đi dép

10

31,2

32

100

12

Tự biết cài khuy áo

15

46,8

30

93,7

13

Tự biết lấy và cất gối

12

37,5

32

100

14

Tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định

12

37,5

32

100

15

Khả năng trẻ tự làm được không cần cô nhắc nhở

27

84,3

30

93,7

* Về phía phụ huynh học sinh:

- Cha mẹ các cháu luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Các bậc cha mẹ trực tiếp giúp trẻ hoàn thành đạt các bài tập ở nhà mà cô yêu cầu.

- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp.

- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ …..

- Cha mẹ cảm thấy mản nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trích cô giáo ngược lại cha mẹ thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.

Với những kết quả đạt được, bản thân tôi rút ra những kinh nghiệm tốt nhất là tích cực nghiên cứu tài liệu, do tích luỹ được trong suốt quá trình thời gian công tác một số điều cần làm và cần tránh trong dạy trẻ mầm non những kỹ năng sống cơ bản kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân như sau:

 

 

* Một số điều cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ qua các hoạt động:

Trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.

Người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và trẻ sẽ làm tốt hơn kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ.

Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa trẻ.

Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều.

* Một số điều cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ các hoạt động cá nhân

- Không bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả. Sự bảo bọc thái quá sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ không thể làm điều gì nên thân. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.

- Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì những yêu cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chính chắn mà trẻ chưa có khả năng hoặc trẻ phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.

- Không nên giáo huấn quá nhiều vì ảnh hưởng của những luồng ngôn ngữ đó làm cho đứa trẻ ngưng hoạt động nhưng trong thực tế đứa trẻ không thể ngưng hoạt động sẽ dần làm cho trẻ nghĩ rằng trẻ là người có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá tiêu cực về bản thân sau này.

3.2. Kiến nghị và đề xuất:

- Qua tìm tòi nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở bậc học mầm non là rất phù hợp và cần thiết .Vì vậy đề nghị các cấp lãnh đạo tiếp tục triển khai thực hiện rộng rãi nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở các trường mầm non.

- Mở lớp tập huấn chuyên môn về nội dung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ cho giáo viên.

- Tuyên truyền nội dung giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non trên đài, báo, ti vi nhằm nâng cao nhận thức của phụ huynh

- Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất cũng như kinh phí để tổ chức các hoạt động tập thể có quy mô,chất lượng cao.

Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình thực hiện dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ. Để có cách làm  hay hơn tôi sẽ phát huy ưu điểm và  khắc phục mặt còn tồn tại để bản sáng kiến bổ ích hơn. Kính mong các cấp lãnh đạo đóng góp thêm nhiều ý kiến và bổ sung để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi đạt kết quả tốt hơn. 

Nguồn: ST

Nếu khi tải tài liệu bị lỗi, hãy liên hệ admin tại mục LIÊN HỆ-HỖ TRỢ trên website để được cập nhật/fix lỗi link tải mới.

Tài liệu được chia sẻ miễn phí tại: https://www.dvtuan.com/

Previous Post Next Post